Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ viêm gan B cao trên thế giới, ước tính có khoảng 10 triệu người bị viêm gan B, trong đó đường lây chủ yếu vẫn là đường lây từ mẹ truyền sang con trong thời kỳ mang thai.
Viêm gan B là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ra bởi virus, ảnh hưởng lớn đến chức năng gan, hậu quả có thể gây suy gan cấp, viêm gan mạn, xơ gan, ung thư gan và có thể dẫn đến tử vong. Giống như virus HIV, bệnh lây qua đường máu, qua quan hệ tình dục và mẹ truyền sang con.
Bệnh viêm gan B hiện nay đã có thuốc điều trị và vaccine phòng bệnh. Do đó, việc sàng lọc, phát hiện và quản lý người phụ nữ bị viêm gan B thời kỳ trước, trong quá trình mang thai, khi sinh và sau khi sinh để đảm bảo trẻ sinh ra không bị nhiễm virus viêm gan B là việc làm rất quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện nay trên thế giới có khoảng gần 300 triệu người mắc viêm gan virus B, khoảng 1 triệu người tử vong vì viêm gan B mỗi năm, mới chỉ có 45% trẻ sinh ra được tiêm phòng vaccine viêm gan B trong vòng 24h sau sinh.
Năm 2016, WHO đã đưa ra 1 chiến dịch toàn cầu về kiểm soát sự lây truyền viêm gan virus B trong cộng đồng với mục tiêu: đến năm 2030 giảm 90% số ca mắc mới ở trẻ sơ sinh và giảm 65% tỉ lệ tử vong do virus viêm gan B gây ra.
Ngày Viêm gan Thế giới 28/7 năm nay, WHO đưa ra chủ đề “Đến lúc chúng ta phải hành động – It’s time for action”, nhằm nâng cao nhận thức và hành động kịp thời về bệnh viêm gan virus để sàng lọc, phát hiện sớm, chẩn đoán và điều trị nhằm hướng tới loại trừ bệnh viêm gan virus vào năm 2030.
Nhân dịp này, chúng tôi đã trao đổi với PGS.TS Đỗ Duy Cường – Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai.
– Xin ông thông tin về tình hình phụ nữ có thai bị nhiễm viêm gan B?
– PGS. Đỗ Duy Cường: Tại Trung tâm quản lý mỗi năm hàng trăm phụ nữ mang thai bị viêm gan B. Mặc dù Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn Quốc gia về Chẩn đoán điều trị viêm gan virus B, trong đó có quản lý điều trị viêm gan B ở phụ nữ có thai cũng như xây dựng “Kế hoạch hành động quốc gia tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2018-2030”.
Tuy nhiên, nhiều phụ nữ khi mang thai không biết mình bị viêm gan B, không được theo dõi điều trị trong quá trình mang thai cũng như trẻ sinh ra không được tiêm vaccine và huyết thanh phòng bệnh.
Đứa trẻ từ khi sinh ra đã bị nhiễm virus viêm gan B thì có thể mang virus suốt đời, để lại hậu quả về bệnh tật và gánh nặng tâm lý rất nặng nề.
Để đạt mục tiêu mà WHO đưa ra cần tiến hành các chương trình dự phòng lây truyền từ mẹ sang con trong suốt quá trình mang thai và sau khi sinh bằng các biện pháp: tiêm chủng vaccine viêm gan B trên toàn cầu cho trẻ, tiêm kháng huyết thanh cho trẻ sơ sinh và mẹ dùng kháng virus trong quá trình mang thai.
Các chương trình dự phòng cần phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên ngành Truyền nhiễm – Sản khoa – Nhi khoa và Y tế dự phòng mới có thể giải quyết được.
– Ông có thể cho biết những ảnh hưởng của phụ nữ giai đoạn mang thai lên sự tiến triển của bệnh viêm gan B mạn tính?
PGS. Đỗ Duy Cường: Bà mẹ mang thai có nhiễm virus viêm gan B cấp tính làm tăng nguy cơ sinh non, trẻ sinh ra nhẹ cân, vàng da. Bà mẹ mang thai có bệnh viêm gan B mạn tính thì tăng nguy cơ tiểu đường thai nghén và băng huyết khi sinh. Ngoài ra, viêm gan virus cấp và mạn tính trên bà mẹ mang thai có HBeAg dương tính nếu không được quản lý và điều trị kịp thời thì nguy cơ 90% có thể truyền virus viêm gan B sang con.
Phụ nữ mang thai tăng hoocmon estrogen dẫn đến tăng nguy cơ hoạt động của virus viêm gan B và có xu hướng tăng dần lên trong các giai đoạn cuối của thai kỳ, gây nên đợt viêm gan cấp, ảnh hưởng đến việc sinh nở thiếu an toàn và mẹ có thể truyền bệnh sang con như trên tôi đã trao đổi.
– Như vậy việc dự phòng lây truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con là rất quan trọng phải không thưa ông? Xin ông cho biết những biện pháp dự phòng cụ thể để các bà mẹ chuẩn bị có thai hoặc đang mang thai.
PGS.TS Đỗ Duy Cường: Đúng như vậy. Các biện pháp đưa ra dựa trên cơ chế lây truyền từ 3 giai đoạn (khi mang thai, trong khi sinh và giai đoạn cho con bú).
Đối với giai đoạn khi mang thai, bà mẹ cần phải uống kháng virus trong 3 tháng cuối của thai kì, bắt đầu từ tuần lễ thứ 24 trở đi, thuốc được lựa chọn là Tenofovir Disoproxil Furamate (TDF) 300mg, uống mỗi ngày 1 viên và thuốc này được uống duy trì tới 3 tháng sau sinh. Cần kiểm tra chức năng thận của bà mẹ, tuy nhiên, thuốc khá là an toàn và không gây ảnh hưởng đến cả mẹ và con, kể cả khi cho con bú.
Khi sinh thì bà mẹ vẫn tiếp tục được uống thuốc, trong quá trình sinh có thể đẻ thường hoặc mổ. Chú ý phải tiêm kháng huyết thanh viêm gan B (HBIG) cho trẻ ngay trong 12 – 24h đầu sau sinh, và kết hợp tiêm ngay vaccine viêm gan B mũi 1.
– Vậy việc tiêm huyết thanh và vaccine viêm gan B cho trẻ em được thực hiện như nào, thưa ông?
PGS.TS Đỗ Duy Cường: Tiêm kháng huyết thanh (HBIG) bắt buộc cho trẻ sơ sinh ở những trường hợp mẹ mang thai có viêm gan B. Tiêm càng sớm càng tốt (tốt nhất trong 12h đầu), nếu để muộn hơn thì tối đa là 5 ngày. Liều: 30 – 100 UI/ kg cân nặng, tiêm bắp sâu hoặc dưới da.
Cần tiêm đủ 3 mũi vaccine phòng viêm gan B cho trẻ. Chương trình tiêm chủng vắc-xin viêm gan B toàn quốc đã giảm đáng kể tỷ lệ mắc viêm gan B trong cộng đồng. Các vaccine hiện nay an toàn và có hiệu quả phòng bệnh.
– Nhân ngày Viêm gan thế giới, PGS có lời khuyên gì đối với các phụ nữ nói chung và bà mẹ mang thai bị viêm gan B nói riêng?
PGS.TS Đỗ Duy Cường: Chị em phụ nữ đến tuổi kết hôn cần được xét nghiệm sàng lọc phát hiện viêm gan B, nếu không bị thì nên tiêm vaccine dự phòng.
Phụ nữ khi đã mắc viêm gan B nếu có thai cần được quản lý bởi bác sĩ truyền nhiễm và khám thai định kỳ, cần uống thuốc kháng virus tránh lây truyền sang cho con từ tuần lễ thứ 24 và trẻ sinh ra cần được tiêm huyết thanh và vaccine sớm trong 24h đầu.
Trung tâm Bệnh Nhiệt đới – Bệnh viện Bạch Mai luôn tiếp nhận xét nghiệm, chẩn đoán, theo dõi quản lý bệnh viêm gan nói chung và viêm gan B cho phụ nữ có thai một cách hiệu quả nhất, góp phần nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người bệnh, gia đình và cộng đồng, hướng tới loại trừ bệnh viên gan B vào năm 2030 như mục tiêu của WHO đã đề ra.
Nguồn: Báo sức khoẻ và đời sống